Affiliation:
1. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
2. Trường Đại học Tài Chính - Marketing, Thành phố Hồ Chí Minh
Abstract
Tiền và các khoản tương đương tiền là khoản mục tài sản đầu tiên trong bảng cân đối kế toán của các công ty và có tính thanh khoản cao nhất nhưng bị hạn chế về khả năng sinh lời. Vì vậy, mục tiêu của bài viết này là đánh giá sự kết hợp tiền với các khoản tương đương tiền dưới góc độ quản lý tài chính thông qua kiểm định tác động của nó đến hiệu quả quản lý tài chính đại diện bởi giá trị thị trường công ty. Mẫu nghiên cứu bao gồm 463 công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2015-2022. Kết quả phân tích hồi quy chỉ ra rằng các khoản tương đương tiền càng nhiều trong lượng nắm giữ tiền và các khoản tương đương tiền góp phần tăng hiệu quả quản lý tài chính đại diện bởi chỉ số Tobin’s Q và tỷ số giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu và ngược lại. Kết quả này hàm ý rằng các công ty cần chú trọng xem xét sự kết hợp giữa tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn với các khoản tương đương tiền để cân đối mục tiêu thanh khoản và lợi nhuận. Ngoài ra, đây là bằng chứng thực nghiệm về khả năng áp dụng mô hình Baumol (1952), Miller và Orr (1966) trong quản lý tiền của các công ty phi tài chính.
Reference28 articles.
1. Abioro, M. (2013). The impact of cash management on the performance of manufacturing companies in Nigeria. Uncertain Supply chain management, 1(3), 177-192.
2. Annika, P. O. (2022). The Effect of Cash Holdings on Financial Performance in German and Dutch Multinationals. Central European Review of Economics and Management (CEREM), 6(2), 117-140.
3. Augustine, N., & Jacob, I. (2017). Cash management and performance of listed firms in Nigeria. Journal of Economics, Management and Trade, 18(1), 1-13.
4. Azmat, Q. U. (2014). Firm value and optimal cash level: evidence from Pakistan. International Journal of Emerging Markets, 9(4), 488-504.
5. Baumol, W. (1952). The Transactions Demand for Cash: An Inventory Theoretic Approach. The Quarterly Journal of Economics, 66(4), 545-556.