Author:
Lê Diễm Kiều,Phạm Quốc Nguyên
Abstract
Nghiên cứu chất lượng môi trường nước của ao nuôi thâm canh cá lóc đầu nhím (Channa sp.) được thực hiện ở huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp. Mẫu nước đầu vào, trong ao nuôi và nước thải của ao nuôi cá lóc được thu vào thời điểm 45, 95 và 135 ngày sau khi thả cá. Kết quả cho thấy nước cấp cho ao nuôi cá lóc được khảo sát hầu hết đều đạt QCVN:08-MT/2015/BTNMT (cột A1). pH và DO của nước ao nuôi và nước thải có khuynh hướng giảm, trong khi EC và TDS đều tăng. Nồng độ đạm vô cơ và lân của ao nuôi đều tăng so với nước cấp nhưng hầu hết vẫn trong giới hạn thích hợp cho cá lóc sinh trưởng và phát triển. Nồng độ N-NH4+, N-NO2- và P-PO43- của nước thải đều cao hơn so với nước cấp (p<0,05) và đều vượt QCVN:08-MT/2015/BTNMT cột B2.Tải lượng N-NH4+, N-NO2-, N-NO3-, P-PO43- và TP trong nước thải ao nuôi thâm canh cá lóc sau 5-6 tháng lần lượt là 154,17; 22,47; 58,95; 62,02 và 99,20 kg/1000 m2/vụ,vì vậy cần có giải pháp theo dõi và xử lý nước thải của ao nuôi cá lóc trước khi thải ra môi trường nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững mô hình nuôi loài thủy sản này.
Reference14 articles.
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. (2015). Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước (QCVN 08-MT:2015/BTNMT).
2. Courtenay, W. R., Jr., & James, D. W. (2004). Snakeheads (Pisces, Channidae)-A Biological Synopsis and Risk Assessment.U.S. Geological Survey Circular, 1251, 143pp. https://doi.org/10.3133/cir1251
3. Dung, N. M., & Hiền, T. T. T. (2017). Nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng của cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 3 (B), 1-9. https://doi.org/10.22144/ctu.jvn.2017.150
4. Emerson, K., Russo, R. C., Lund, R. E., & Thurston, R. V. (1975). Aqueous Amoniac Equilibibrium Calculations: Effects of pH and Temperature. Journal of the Fisheries Research Board of Canada, 32, 2379-2383. https://doi.org/10.1139/f75-274
5. Giao, N. T., & Sang, Đ. M. (2021). Tải lượng ô nhiễm trong nước thải ao nuôi cá lóc (Channa striata) tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 19(2), 254-263.