1. Hình 1: Tỷ lệ sống và chiều dài Artemia ngày 14 (biểu đồ hình cột: chiều dài và hình line: tỷ lệ sống)
2. Kết quả phân tích thống kê cũng cho thấy độ mặn và TLTT là những tác nhân chủ yếu ảnh hưởng đến TLS của Artemiavà không có ảnh hưởng tương tác giữa chúng. Vào ngày 7 ảnh hưởng độc lập của các nhân tố này ở mức độ thấp (p=0,03-0,04) nhưng đã trở nên rõ ràng hơn vào ngày 14 (p=0,000-0,001; Bảng 3)
3. Về tăng trưởng chiều dài của Artemia(Bảng 3), kết quả cho thấy vào ngày nuôi thứ 7 Artemiacó chiều dài biến thiên từ 2,11 mm (S30-0) đến 3,57 mm (S50-R100) và khá khác biệt ở các NT. Tuy nhiên, vào ngày nuôi thứ 14 chiều dài giữa các NT đều đạt từ 5,8-6,8mm và có sự khác biệt không đáng kể(p>0,05) giữa các NT ngoại trừ S30-100 và S30-0; S50-25 (khác biệt có ý nghĩa, p<0,05). Kết quả thống kê trong bảng 3 và hình 1, NT đối chứng cũng chứng minh đối với chiều dài, độ mặn không ảnh hưởng nhiều (vào ngày 7) hoặc rất ít (ngày 14) và điều này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây rằng Artemialà loài rộng muối có thể sống và sinh trưởng ở độ mặn từ nước biển tự nhiên đến các hồ nước mặn có độ mặn lên đến 200‰ (Lavens và Soorgeloos, 1996; Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007; Nguyễn Thị Hồng Vân và Huỳnh Thanh Tới., 2017). Tuy nhiên việc thay thế môi trường nuôi từ nước biển qua nước muối có tác động đáng kể đến tăng trưởng của Artemia(Bảng 3), TLTT càng cao thì tăng trưởng cũng tốt hơn nhất là ở các độ mặn thấp 30-40‰ (Hình 1). Xét về mặt lý thuyết thì Artemiaở các NT ĐC (độ mặn được pha từ nước biển) phải có tăng trưởng tốt hơn các ở các NT thay thế bởi vì nó có các thành phần đa vi lượng gần với nước biển tự nhiên thích hợp cho các sinh vật sống, trong khi nước muối biển mặc dù có các thành phần muối đa lượng gần với nước biển nhưng số lượng các khoáng vi lượng ít (Kolev et al., 2013).Tuy nhiên trong thí nghiệm này đã có một khuynh hướng ngược lại, nguyên do có thể vì Artemialà một loài có khả năng chịu đựng các môi trường rất khắc nghiệt, dễ thích nghi với các thành phần muối, khoáng…khác nhau ở sinh cảnh sống của mình (Van Stappen, 2002) nên có lẽ việc mất đi một số nguyên tố vi lượng không ảnh hưởng nhiều đến chúng. Thêm vào đó việc sử dụng thức ăn chế biến chuyên dùng cho Artemiamà thành phần có bổ sung thêm khá nhiều các loại khoáng vi lượng (Dương Thị Mỹ Hận và ctv., 2016; Dương Thị Mỹ Hận và ctv., 2017) có lẽ cũng đã bổ sung phần nào các thiếu hụt ở nước muối. Ngoài ra, cũng phải kể đến là về mặt sinh học thì tăng trưởng cá thể phụ thuộc rất nhiều vào mật độ và đây là mối tương quan tỷ lệ nghịch, điều này là một trong những nguyên nhân giải thích cho việc tăng trưởng tốt hơn ở các NT thay thế nước muối so với ĐC (TLS ở ĐC là cao nhất và thấp nhất là ở TLTT 100%; Hình 1).
4. Bảng 3: Kết quả phân tích ANOVA hai nhân tố (giá trị p) của các chỉ tiêu tỷ lệ sống, chiều dài của Artemia
5. (***: khácbiệtcó ý nghĩa p<0,001; **: p<0,01 và *: p<0,05)